Thể Thao 247 - 5 thói quen đơn giản tưởng chừng như vô hại nhưng trên thực tế lại gây hại rất lớn đến hệ thống phanh ô tô.
Phanh tay trên ô tô được thiết kế nhằm mục đích giữ cho xe đứng yên khi đỗ, nhưng nếu lái xe lơ đãng và thao tác không đúng cách, bộ phận này có thể gây hại cho xe.
Hệ thống phanh ô tô có chức năng giảm tốc độ và dừng xe theo mong muốn người lái. Có 2 cơ cấu phanh là phanh chính và phanh đỗ. Ngày nay, phanh ôtô được trang bị rất nhiều công nghệ hỗ trợ như chống bó cứng phanh ABS, phân bổ lực phanh,… giúp quá trình phanh an toàn và hiệu quả hơn.
Các dạng hỏng thường gặp ở hệ thống phanh là phanh mất bám, phanh bị bó, không nhả, chân phanh hơi rung ngược lại bàn chân khi thao tác phanh, xe bị chệch hướng khi phanh, đặt chân phanh có cảm giác nặng hoặc “âm” chân, có tiếng kêu khi phanh, và cuối cùng hỏng các công nghệ hỗ trợ.
Dưới đây là 5 thói quen các lái xe thường xuyên mắc phải dễ gây hại cho phanh ô tô:
1. Kéo phanh tay sau khi về số P
Nhiều chủ xe có thói quen về P, tắt máy sau đó mới kéo phanh tay. Thói quen này về lâu dài sẽ gây ảnh hưởng tới tuổi thọ và độ bền của cơ cấu bánh răng cóc bên trong hộp số.
Trong hộp số tự động có một chốt đỗ mà nhiều người gọi là bánh răng cóc. Nó sẽ bám vào các ngàm giữ trên trục ra của hộp số, giúp bánh xe không lăn khi người điều khiển về số P. Vì đặc điểm nhỏ gọn chỉ bằng ngón tay, nếu bánh răng cóc phải chịu toàn bộ khối lượng của chiếc xe lâu ngày dẫn đến bị mài mòn. Thậm chí có thể bị phá vỡ nếu tác động mạnh.
Để giảm gánh nặng một phần cho cơ cấu bánh răng cóc, khi dừng đỗ xe người điều khiển nên làm theo quy trình đạp phanh chân, kéo phanh tay, sau đó về số P và tắt máy. Việc kéo phanh tay trước sẽ giúp bánh răng cóc bên trong hộp số được san sẻ rất nhiều áp lực.
Theo một chuyên gia kinh doanh sửa chữa ôtô tại Việt Nam, tài xế cẩn thận có thể thêm một bước là về số N để đảm bảo xe không bị chồm lên. Cụ thể quy trình sẽ là đạp phanh chân, về N, kéo phanh tay, về P, và tắt máy. Vị chuyên gia còn nhấn mạnh rằng tắt máy là khâu cuối cùng, không nên tắt máy rồi mới kéo phanh tay như thói quen của nhiều người.
2. Quên hạ hoặc hạ chưa hết phanh tay
Đối với trường hợp người sử dụng ô tô quên hạ hoặc hạ chưa hết phanh tay và cho xe vận hành. Lúc này, guốc phanh và má phanh vẫn còn áp sát vào tang trống (hoặc đĩa phanh). Ma sát lớn giữa má phanh và tang trống sẽ sinh nhiệt lớn khi xe chạy, làm cho má phanh có thể bị cháy.
Thông thường, khi gặp trường hợp này, một số xe thường phát tín hiệu thông qua đèn cảnh báo bật sáng trên đồng hồ trung tâm để nhắc nhở người lái. Trong trường hợp người lái vẫn không để ý đèn cảnh báo, sau khi cho xe chạy sẽ cảm nhận được độ nặng của xe kèm theo mùi khét từ hệ thống phanh.
Bên cạnh đó, các hệ thống cảm biến gắn trên cụm phanh như hệ thống chống bó cứng phanh ABS cũng có thể bị hỏng. Tuy nhiên, điều nguy hiểm hơn là nhiệt phát sinh có thể làm sôi dầu phanh dẫn đến hậu quả là phanh mất tác dụng.
3. Hạ phanh tay khi xe chưa dừng hẳn
Theo thói quen sử dụng ô tô hoặc sơ xuất, một số tài xế mới thường hạ phanh tay khi xe chưa dừng lại hẳn. Thật ra, phanh tay không được thiết kế cho khả năng dừng khi xe đang chạy, mà chỉ để giữ xe đứng yên khi xe đã dừng. Trong trường hợp xe đang di chuyển hay chưa dừng lại hẳn, nếu tài xế sơ suất kéo phanh tay, lực phanh tác động lên 2 bánh sau có thể dẫn đến hiện tượng trượt bánh, gây nguy hiểm.
Việc sử dụng phanh tay khi xe đang chạy, chỉ được các tay lái chuyên nghiệp áp dụng để trình diễn những màn drift xe. Tuy nhiên, các xe dùng để biểu diễn thường được “độ” lại hệ thống phanh tay để tạo ra lực phanh lớn hơn.
Với những mẫu xe đời cũ, trong trường hợp bất khả kháng khi phanh chân gặp sự cố, giải pháp được nhiều người sử dụng là kéo phanh tay, nhưng do lực tác động của phanh tay yếu hơn hoặc má phanh bị mòn, nên rất khó phát huy tác dụng.
4. Rà phanh khi đổ dốc hoặc xuống đèo.
Việc rà phanh sẽ tạo ra nhiệt lượng lớn có thể gây cháy và cong vênh má phanh với phanh đĩa, hoặc trống phanh với phanh tang trống. Có thể dẫn đến tình trạng mất phanh, nguy hiểm đến tính mạng người ngồi bên trong xe.
Khi điều khiển đổ đèo hoặc xuống dốc, nên chuyển sang chế độ bán tự động với xe dùng hộp số tự động, chuyển về số thấp đối với số sàn. Tuân theo nguyên tắc 'lên số nào, xuống số đó'. Hệ thống truyền động sẽ hãm tốc độ xe lại, giảm áp lực cho hệ thống phanh.
Nên thay thế dầu phanh định kỳ, nếu không thay dầu phanh dẫn đến hiện tượng dầu phanh sôi sớm khi làm việc, tạo ra các bọt khí khi làm việc trong hệ thống phanh, dẫn đến mất tính trợ lực, mất tác dụng. Theo vị chuyên gia, cần thay thế dầu phanh sau khi sử dụng 40.000 km hoặc 2 năm, tùy theo điều kiện nào đến trước.
5. Không bảo dưỡng phanh thường xuyên.
Một số chủ phương tiện có suy nghĩ là thay thế dầu bôi trơn đã là bảo dưỡng định kỳ mà quên đi các hạng mục khác.
Việc bảo dưỡng định kỳ phanh giúp loại bỏ những mạt bám trên bề mặt tiếp xúc, phát hiện lỗi trên hệ thống phanh, tránh nguy cơ má phanh bị kẹt, phanh không bám nhả theo đúng ý người lái, gây mất an toàn khi sử dụng.
Các chủ xe thường có xu hướng thay dầu nhớt theo chu kỳ cố định dựa trên số km, mà quên rằng việc thay nhớt còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.